Hình tượng nhân vật Từ Hải qua đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thuyết minh Bình Ngô Đại Cáo

Hình tượng nhân vật Từ Hải qua đoạn trích Chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nếu nhắc đến những con người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam thì ắt không thể thiếu Nguyễn Du – đại thi hào đã mang tên tuổi nước ta lên tầm quốc tế. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tuyệt tác văn học được viết bằng cả chữ Hán và đặc biệt là chữ Nôm, với ví dụ tiêu biểu là “Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” không chỉ thành công trong việc khắc họa số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời nêu cao khát vọng vươn tới những điều tươi đẹp hơn của nhân dân Việt Nam qua nhân vật Thúy Kiều và cuộc hành trình đầy gian truân của nàng; mà còn thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng của Nguyễn Du. Chúng ta có thể thấy rõ được hình ảnh người anh hùng đẹp đẽ này qua nhân vật Từ hải, tiêu biểu là ở đoạn trích “Chí khí anh hùng”. Bên canh đoạn miêu tả về ngoại hình của Từ thì “Chí khí anh hùng” chính là những dòng thơ hay nhất mà Nguyễn Du dành cho nhân vật này.

Nguyễn Du (1765-1820) sinh ra và lớn lên trong một thời kì đầy biến động – giang sơn nhiều lần đổi chủ, chế độ phong kiến dần suy tàn, dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Điều này đã giúp Nguyễn Du hình thành những suy nghĩ về cuộc đời và thế thái nhân sinh và dần ảnh hưởng tới phong thái văn chương của ông. Bên cạnh đó, xuất thân từ gia đình với nhiều truyền thống văn hóa và truyền thống hiếu học, ông đã có điều kiện dùi mài kinh sử và mở rộng vốn hiểu biết về văn hóa lẫn văn học của bản thân. Tất cả cùng với những biến cố lớn ông phải trải qua trong cuộc đời mình đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các sáng tác văn học của ông, điều đó được đặc biệt thể hiện ở “Truyện Kiều”. Bên cạnh hình ảnh những kiếp người nhỏ bé, khổ đau mà Nguyễn Du đã hết sức nâng vực trong tác phẩm này, chúng ta còn bắt gặp cả hình ảnh người anh hùng chứa đầy ước mơ của ông. Ở đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật người anh hùng tái thế Từ Hải đã được Nguyễn Du đã xây dựng và ngợi ca với bao phẩm chất cao đẹp.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” được đặt ở hoàn cảnh: sau khi Từ Hải cứu Kiều khỏi lầu xanh, hai người sống hạnh phúc được nửa năm thì Từ Hải đã từ biệt Thúy Kiều để ra đi lập sự nghiệp lớn. Đoạn trích bao gồm 18 câu (từ câu 2213 đến câu 2230) và có thể được phân thành ba phần – giới thiệu khái quát về Từ Hải, cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều, hình ảnh Từ Hải ra đi. Qua “Chí khí anh hùng” , tác giả đã không chỉ gửi gắm lí tưởng của mình mà cả ước mơ lãng mạn của ông lẫn những con người bị áp bức trong xã hội xưa vào hình tượng người anh hùng Từ Hải.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã viết:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong.”

Cụm từ “hương lửa đương nồng” ám chỉ cuộc sống vợ chồng Từ Hải – Thúy Kiều đang nồng ấm, tuy nhiên Từ Hải lại không thấy mãn nguyện với cuộc sống bấy giờ mà thầm khao khát một thứ gì đó lớn lao hơn ở “bốn phương” – khao khát được tung hoành nơi bốn bể, được ra đi để gây dựng sự nghiệp lớn của người trượng phu. Trong xã hội phong kiến, đã là nam nhi thì phải có chí vùng vẫy giữa trời cao đất rộng. “Trượng phụ” là cách gọi để thể hiện sự tôn trọng dành cho bậc anh hùng tái thế. Và xuyên suốt “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chỉ dùng từ duy nhất với nhân vật Từ hải. Qua đó, ta đủ thấu hiểu tấm lòng của Nguyễn Du được đặt ở người anh hùng này là như thế nào. Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải là một người chí khí, một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi, Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”.

Sự quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của Từ Hải được thể hiện ở những từ ngữ đầu tiên như “thoắt”. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho Từ Hải “không phải người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chính vì thế, chàng hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.

Không gian trời bể mênh mang, con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng cụm từ “lên đường thẳng rong” nhằm gợi lên dáng vẻ hiên ngang, sẵn sàng lên đường của Từ Hải. Bằng việc sử dụng cảm hứng vũ trụ, các cụm từ mang tính gợi hình, gợi cảm cao, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải – con người mang trong mình những hoài bão lớn lao, từ đó thể hiên rõ tính cách của nhân vật này.

Mười hai câu thơ tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải:

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng”
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.”

Khi biết về ý định ra đi lập nghiệp của Từ Hải, Kiều đã không ngần ngại mà bày tỏ mong muốn được đi theo chồng mình, bởi nàng vẫn theo lẽ “phận gái chữ tòng” – bổn phận người vợ phải theo chồng. Dù là một con người với những tư tưởng tiến bộ, Kiều vẫn viện vào lễ giáo phong kiến để thuyết phục Từ Hải cho nàng được làm tròn chữ “tòng” – “xuất giá tòng phu”, thuyết phục Từ Hải đưa mình theo cùng để cùng chồng gánh vác công việc. Tại đây, ta đã biết thêm một đức tính cao đẹp khác của Kiều – tình yêu chồng và sự khâm phục, kính trọng của mình với Từ Hải – biểu tượng đẹp cho người quân tử với biết bao hoài bão lớn lao. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải đáp:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Từ Hải nhẹ nhàng trách móc Kiều, cho rằng nếu cả hai đã hiểu rõ nhau, đã biết rõ tâm tư tình cảm dành cho nhau, vậy cớ sao nàng vẫn chưa thể thoát khỏi sự ủy mị của một người phụ nữ tầm thường, sao nàng vẫn còn tin vào những lễ giáo phong kiến lạc hậu, cũ kĩ mà không hiểu mình hơn. Lời nói của chàng không chỉ là những lời trách móc nhẹ nhàng mà còn là lời động viên, an ủi Thúy Kiều, nhắc nhở nàng nên thấy tự hào về bản thân khi được đánh giá cao hơn những người phụ nữ khác. Tiếp đó, Từ Hải nêu lên một loạt lí do để khuyên Kiều không theo mình:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thườngBấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Từ Hải khẳng định chỉ khi nào ước mơ của mình được toại nguyện – có một cơ đồ vững chắc để tỏ rõ mặt phi thường thì chàng mới rước Kiều nghi gia theo cách đường hoàng nhất, long trọng nhất. Điều này không chỉ nêu cao chí khí anh hùng mà cả sự chu đáo, quan tâm sâu sắc của Từ Hải dành cho Kiều. Chàng không muốn vợ mình phải chịu khổ với mình trong những tháng ngày “màn trời chiếu đất”, “bốn bể không nhà” nên càng không muốn đưa Kiều theo cùng. Tóm lại, Từ Hải đã khéo léo sử dụng nhiều lí lẽ nhằm tạo cho Kiều niềm tin, hi vọng để nàng tin tưởng, an tâm chờ đợi ngày mình trở về (“chờ đó ít lâu”), từ đó thống nhất khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người mình yêu thương.

Kết thúc đoạn trích là những câu thơ gợi tả về hình ảnh Từ Hải ra đi lập nghiệp:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Dứt lời chia tay nàng Kiều, Từ Hải đã một mạch lên đường, dứt khoát, không chút do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc hay cản bước tiến của người anh hùng. Bởi bây giờ chính là thời điểm chim bằng bay lên cùng gió mây – thời điểm người anh hùng của chúng ta tỏa sáng khí chất giữa muôn trùng sông núi. Một lần nữa, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt điển tích, điển cố nhằm khẳng định quyết tâm và tự tin vào thành công của Từ Hải, đồng thời thể hiện lí tưởng của một người anh hùng khao khát gây dựng nên một sự nghiệp với tầm vóc lớn lao và mang nhiều ý nghĩa.

Xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta không chỉ thấy hình tượng người anh hùng với quyết tâm đấu tranh chống cái ác, cái gian tà để bảo vệ công lí, đem lại hạnh phúc cho nhân dân ở mình Từ Hải mà còn ở nhiều nhân vật khác, tiêu biểu là Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”. Cả hai đều đại diện cho chính nghĩa, cho cái thiện và luôn hết mình chống lại cái xấu, cái ác, thậm chí đặt cả tính mạng bản thân vào nguy hiểm. Họ không để những cám dỗ tầm thường hay tình cảm cá nhân làm lòng họ lung lay trên con đường đầy gian truân này. Qua những hình tượng này, ta hiểu thêm rằng đây không chỉ là sự tạo dựng nhân vật đơn thuần cho mạch truyện, mà còn là sự kết tinh của những ước muốn, khát khao của tác giả lẫn người dân nước Việt – khát khao về ngày họ được sống trong sự tự do, trong hạnh phúc và hòa bình.

Tóm lại, bằng việc kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật, các hình ảnh ước lệ với cảm hứng vũ trụ và tài năng miêu tả tính cách nhân vật của mình, Nguyễn Du đã thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng Từ Hải. Từ Hải không phải là người anh hùng hiện thực mà là hình tượng người anh hùng lãng mạn mang dấu ấn quan niệm của tác giả. Nói cách khác, Nguyễn Du đã gửi gắm những lí tưởng anh hùng của mình vào nhân vật Từ Hải để thầm bộc lộ ước mơ của ông, cũng là của những con người bị áp bức trong xã hội phong kiến xưa. Bên cạnh đó, nhà thơ cũng muốn để lại nhiều bài học đáng quý cho người đời sau thông qua hình tượng nhân vật này – luôn luôn đấu tranh bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải vì tương lai của bản thân mỗi người, của gia đình và toàn xã hội.


Bài làm của Thảo Uyên

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *